Nhiều sinh viên chọn Bồ Đào Nha làm điểm đến du học, và sau khi hoàn thành khóa học, họ có cơ hội để định cư tại quốc gia này. Dưới đây là một số thông tin quan trọng về việc định cư sau khi du học tại Bồ Đào Nha:
Nhiều sinh viên chọn Bồ Đào Nha làm điểm đến du học, và sau khi hoàn thành khóa học, họ có cơ hội để định cư tại quốc gia này. Dưới đây là một số thông tin quan trọng về việc định cư sau khi du học tại Bồ Đào Nha:
Giáo viên dựa vào 3 mức độ để xét về các tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên: Mức đạt, mức khá và mức tốt.
Bài viết trên đã mang đến cho bạn những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ nói chung và những chuyên môn nghiệp vụ giáo viên. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích được cho các bạn giáo viên hoặc những bạn đang có nhu cầu tìm hiểu về những kiến thức trên.
Bồ Đào Nha, nổi bật với những bãi biển tuyệt đẹp, nền văn hóa phong phú và chất lượng cuộc sống cao, đang trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn định cư. Trong bài viết này, CHD xin trân trọng mời quý Anh/Chị tham gia tìm hiểu về các hình thức định cư phổ biến tại Bồ Đào Nha. Dù bạn là nhà đầu tư, người muốn bảo lãnh người thân, người tìm kiếm việc làm hay là sinh viên đã từng du học tại đây, hãy cùng chúng tôi khám phá những lựa chọn định cư phù hợp nhất dành cho bạn.
Golden Visa Bồ Đào Nha được xem là một trong những chương trình đầu tư hấp dẫn nhất toàn cầu. Chương trình này thu hút các nhà đầu tư quốc tế bằng cách cung cấp quyền cư trú tại Bồ Đào Nha thông qua các khoản đầu tư tài chính.
Yêu cầu đầu tư: Để tham gia, nhà đầu tư cần đáp ứng các yêu cầu về tài chính nhất định. Điều này thường bao gồm việc mua bất động sản tại Bồ Đào Nha hoặc đầu tư vào các dự án kinh tế địa phương. Giá trị tối thiểu cho khoản đầu tư này có thể thay đổi theo thời gian và theo khu vực. Hiện tại, số tiền tối thiểu cần đầu tư vào bất động sản là từ 280.000 EUR.
Lợi ích: Sau khi hoàn tất khoản đầu tư, nhà đầu tư cùng gia đình sẽ được cấp quyền cư trú tại Bồ Đào Nha. Quyền cư trú này mang lại khả năng di chuyển tự do trong khối Schengen, cũng như quyền sử dụng các dịch vụ công cộng và giáo dục tại Bồ Đào Nha.
Thời gian xét duyệt: Quy trình xin và thẩm định đầu tư có thể mất thời gian, bao gồm cả việc thu thập và kiểm tra các giấy tờ liên quan. Tuy nhiên, sau khi được chấp thuận, nhà đầu tư thường nhận quyền cư trú tạm thời và sau một khoảng thời gian nhất định, họ có khả năng chuyển đổi sang quyền cư trú vĩnh viễn.
Điều kiện gia hạn: Nhà đầu tư cần chú ý đến các quy định liên quan đến việc gia hạn quyền cư trú cũng như duy trì các điều kiện liên quan đến khoản đầu tư. Chương trình Golden Visa thường yêu cầu các nhà đầu tư phải giữ nguyên khoản đầu tư tại Bồ Đào Nha trong một khoảng thời gian cụ thể.
Chương trình Golden Visa Bồ Đào Nha đã thu hút đông đảo nhà đầu tư quốc tế và trở thành một trong những diện định cư phổ biến nhất tại quốc gia này. Tuy nhiên, việc quyết định tham gia vào chương trình này cần được xem xét kỹ lưỡng để hiểu rõ tất cả các yêu cầu và quy trình liên quan.
Định cư theo diện bảo lãnh gia đình tại Bồ Đào Nha là một sự lựa chọn lý tưởng cho những người đang sinh sống tại quốc gia này và mong muốn đưa người thân đến chung sống. Dưới đây là một số thông tin quan trọng về diện bảo lãnh gia đình:
♦ Người bảo lãnh: Đây là người đã định cư và có quyền cư trú tại Bồ Đào Nha.
♦ Người được bảo lãnh: Diện bảo lãnh gia đình áp dụng cho các thành viên thân thiết, bao gồm vợ/chồng và con cái dưới 18 tuổi hoặc con cái từ 18 đến 26 tuổi nếu đang theo học. Ngoài ra, cha mẹ và con cái của vợ/chồng cũng đủ điều kiện để được bảo lãnh.
Yêu cầu tài chính: Người bảo lãnh cần chứng minh khả năng tài chính để đảm bảo cuộc sống cho người thân tại Bồ Đào Nha. Điều này bao gồm việc cung cấp nơi ở, thực phẩm, giáo dục và dịch vụ y tế.
Quá trình xin visa: Quy trình xin visa theo diện bảo lãnh gia đình thường bắt đầu khi người bảo lãnh nộp đơn xin visa cho người thân của mình. Tiếp theo, cần cung cấp các tài liệu hợp lệ để chứng minh mối quan hệ gia đình cũng như khả năng tài chính.
Thời gian cư trú: Khi visa được phê duyệt, người thân của người bảo lãnh sẽ được cấp quyền cư trú tại Bồ Đào Nha. Thời gian cư trú có thể khác nhau tùy thuộc vào loại visa và các điều kiện cụ thể.
Visa làm việc tại Bồ Đào Nha là một trong những hình thức định cư phổ biến dành cho những ai mong muốn làm việc và sinh sống tại đất nước này. Dưới đây là một số thông tin quan trọng mà Anh/Chị cần lưu ý về loại visa này:
Tìm kiếm việc làm: Trước khi nộp đơn xin visa làm việc, Anh/Chị cần phải tìm kiếm một công việc tại Bồ Đào Nha. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực để tìm ra vị trí phù hợp và ký kết hợp đồng lao động hợp pháp.
Hợp đồng lao động: Có một hợp đồng lao động hợp lệ là yêu cầu quan trọng để xin visa làm việc tại Bồ Đào Nha. Hợp đồng này cần được ký kết với một doanh nghiệp địa phương.
Thời hạn visa: Visa làm việc thường có thời gian hiệu lực cụ thể, phụ thuộc vào thời gian của hợp đồng lao động. Nếu Anh/Chị muốn tiếp tục làm việc sau khi hết hạn visa, cần nộp đơn xin gia hạn hoặc chuyển sang loại visa khác.
Quyền cư trú: Khi Anh/Chị làm việc và sinh sống tại Bồ Đào Nha, Anh/Chị sẽ có quyền cư trú tại quốc gia này trong suốt thời gian hợp đồng lao động. Anh/Chị cũng có khả năng duy trì quyền cư trú sau khi hợp đồng kết thúc, tùy theo các quy định cụ thể.
Các loại visa khác: Bồ Đào Nha cung cấp nhiều loại visa khác nhau cho những người muốn làm việc và định cư, bao gồm visa dành cho chuyên gia, visa cho doanh nhân và nhiều loại visa khác nữa.
Tiêu đề: Những khó khăn, thách thức của doanh nghiệp khi chi phí logistics và các hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
Khảo sát của Ngân hàng Thế giới cho thấy, chi phí logistics chiếm rất lớn trong giá thành của nhiều ngành hàng tại Việt Nam. Thống kê cũng cho thấy, mức chi phí logistics tại Việt Nam cao hơn Thái Lan 6%, Malaysia 12%, còn so với Singapore thì cao hơn tới ba lần. Đáng chú ý, trong chi phí logistics thì chi phí vận tải chiếm quá lớn. Vậy, thực trạng này ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp? Đâu là giải pháp để giúp các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí, nâng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, cũng như các bất cập trong các quy định kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay là gì? Các điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics trong Dự thảo Nghị định mới cần được cụ thể hóa như thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như tạo cơ sở để quản lý một cách hiệu quả hơn về ngành dịch vụ logistics.Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch hành động năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025. Mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP và xếp hạng thứ 50 trở lên theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics trên thế giới. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam trong thời gian tới. Vậy, liệu mục tiêu này có được hiện thực hóa hay không? Chia sẻ của ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam, ông Ngô Khắc Lê, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam và ông Nguyễn Tương, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các vấn đề này. Phóng viên hỏi: Thưa Ông Lê Tiến Trường, có ý kiến cho rằng, một trong những khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng chính là chi phí vận tải khá cao. Ông nghĩ sao về nhận định này ? Trả lời: Thứ nhất là chi phí logistics hiện nay đang chiếm tỷ trọng khá cao, với ngành ngành thủy sản, chi phí này chiếm hơn 12%, đồ gỗ chiếm 23%, rau quả 29,5%, ngành gạo chiếm đến gần 30% trong giá thành, còn chi phí này hiện đang chiếm tới gần 1/3 giá thành mỗi sản phẩm xuất nhập khẩu dệt may, trong đó, chi phí vận tải chiếm một phần lớn. Thứ hai là một trong những khó khăn của ngành gặp phải là chi phí ngành ngày càng cao liên quan đến vận tải lưu kho hàng lẻ, chi phí dịch vụ vận chuyển, cân trọng lượng container trước khi xuất khẩu của các hãng tàu nước ngoài bị đẩy lên cao bất hợp lý. Đặc biệt, việc Hãng vận tải biển Hanjin phá sản dẫn đến việc tăng giá thành vận chuyển đường biển trong thời gian tới, ảnh hưởng đến doanh nghiệp xuất khẩu dệt may…Thứ ba chi phí vận tải trên đường nội bộ, chi phí tại cảng, chi phí lưu kho lưu bãi và các chi phí khác lớn, điều này làm cho tính cạnh tranh của doanh nghiệp như doanh nghiệp dệt may sẽ khó khăn. Thứ tư chúng ta biết rằng, hiện nay chúng ta chở container trên đường bộ từ Hà Nội về Hải Phòng còn đắt hơn cả chở tàu biển từ Hải Phòng sang Tokyo. Như vậy, nó sẽ làm cho năng lực cạnh tranh chung nó kém đi… Phóng viên hỏi: Vậy, Ông cho biết điều quan trọng nhất để tiết giảm chi phí, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh là gì ? Trả lời: Điều quan trọng là nỗ lực của doanh nghiệp cần được hiệp lực với nỗ lực của quản lý Nhà nước, của một Chính phủ mang tính chất kiến tạo cho doanh nghiệp để chúng ta có năng lực cạnh tranh quốc gia chung. Bởi lẽ, khi khách hàng vào đây, không chỉ đánh giá doanh nghiệp mà họ đánh giá tổng thể để toàn bộ giá trị họ nhận được hàng, trong đó có rất nhiều phần thuộc về dịch vụ công, dịch vụ hạ tầng và quy trì; Cùng với đó là hoàn thiện khung pháp lý cho ngành dịch vụ logistics làm cơ sở cho hoạt động này phát triển… Phóng viên hỏi: Thưa Ông Ngô Khắc Lê, từ thực tiễn hoạt động và nghiên cứu trong lĩnh vực logistics, Ông có thể cho biết, bất cập lớn nhất trong các quy định kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay là gì? Trả lời: Bất cập lớn nhất hiện nay là hệ thống pháp luật điều chỉnh logistics thương mại chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, chưa quy định rõ ràng, rành mạch về trách nhiệm và giới hạn quản lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý về hoạt động logistics thương mại, nhất là giữa Bộ Công thương và Bộ Giao thông vận tải, qua đó đã làm cho việc quản lý và điều hành hoạt động logistics thương mại còn gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều cơ quan tham gia quản lý, nhưng chưa có một cơ quan điều hành chung về logistics thương mại. Nội dung về điều kiện cấp phép hoạt động logistics thương mại chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh logistics thương mại, còn gây phiền hà cho doanh nghiệp. Điển hình là giữa các quy định tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP, Nghị định 87/2009/NĐ-CP, Nghị định 89/2011/NĐ-CP... Bên cạnh đó, việc quản lý hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ logistics thương mại sau khi đã được cấp phép hoạt động còn chưa chặt chẽ, thiếu kiểm tra thường xuyên. Phóng viên hỏi: Hiện nay, Dự thảo Nghị định về ngành nghề kinh doanh dịch vụ logistics nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp. Để có được quy định phù hợp với thực tiễn, Ông có đề xuất, kiến nghị gì về các điều kiện kinh doanh này? Trả lời: Hiện nay, dịch vụ kinh doanh logistics được quy định tại Luật Thương mại năm 2005, Nghị định 140/2007/NĐ-CP. Nghị định này đang được Bộ Công thương trình Chính phủ xem xét việc sửa đổi bổ sung để phù hợp với việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi WTO và tiến trình hội nhập sâu rộng hiện nay của nước ta. Hiện nay, điều kiện kinh doanh vẫn là vấn đề cản trở doanh nghiệp, cụ thể ở đây là giấy phép con. Ví dụ như xe vận tải đường bộ phải có đầy đủ các phù hiệu, biển hiệu... Chúng tôi cho rằng, khi đã có quy định chung về điều kiện kinh doanh logistics thì chỉ nên áp dụng một nghị định, tránh áp dụng quá nhiều nghị định ở các ngành khác như vận tải, hải quan, thuế. Về điều kiện kinh doanh logistics đối với nhà đầu tư nước ngoài, dự thảo cho phép doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam để cung cấp một số dịch vụ logistics. Cụ thể, công ty vận tải biển nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế. Công ty nước ngoài cũng được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ kho bãi container, dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa; dịch vụ chuyển phát.Tuy nhiên, vẫn còn một số hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp nước ngoài vẫn phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước, như môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa; vận tải đường thủy nội địa, vận tải đường sắt; đường bộ... với tỷ lệ vốn góp nước ngoài không quá 49-51%, tùy theo lĩnh vực. Dự thảo quy định dịch vụ kiểm tra vận đơn phải lập liên doanh, nhưng trên thực tế, không có công ty nào làm riêng công việc kiểm tra vận đơn. Thế mà dự thảo lại quy định muốn làm chứng từ vận tải hoặc muốn kiểm tra vận đơn thì phải lập liên doanh, như thế là chưa phù hợp. Bên cạnh đó, việc quản lý dịch vụ logistics thuộc quá nhiều bộ như Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... trong khi việc phối hợp giữa các bộ ngành chưa tốt khiến nhiều khi không giải quyết được vấn đề. Đề nghị thành lập một cơ quan cấp quốc gia có thẩm quyền điều hành hoạt động dịch vụ logistics, bởi có một cơ quan điều phối chung giúp sẽ xóa được nhiều rào cản, tạo điều kiện đưa dịch vụ logistics Việt Nam nhanh chóng phát triển và hội nhập. Phóng viên hỏi: Thưa Ông Nguyễn Tương, hàng loạt mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics đến năm 2025 đã được Chính phủ đặt ra tại Quyết định số 200/QĐ-TTg. Vậy, dưới góc độ đơn vị đại diện cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics, Ông nghĩ sao về các mục tiêu này? Trả lời: Trong tất cả các mục tiêu trên, chúng tôi cho rằng, mục tiêu tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10% là chỉ tiêu tương đối cao. Bởi lẽ, theo số liệu thống kê của tổ chức Nhật Bản thì năm 2014, chúng ta mới chỉ đạt 3%. Tuy nhiên, cao thì chúng ta vẫn phải phấn đấu. Còn lại các chỉ tiêu khác như tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, giảm chi phí logistics xuống tương đương 16%-20% GDP và chỉ số năng lực quốc gia về logistics xếp hạng thứ 50 trở lên… là hoàn toàn chúng ta có thể đạt được. Phóng viên hỏi: Thưa ông, đã có nhiều ý kiến cho rằng, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics đang là những rào cản khiến chi phí logistics không có sự cải thiện theo hướng hỗ trợ cho doanh nghiệp. Ông nghĩ sao về nhận định này? Trả lời: Mục tiêu của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong việc thực hiện Quyết định 200 về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025 vừa được ban hành ngày 14/2/2017 là giảm chi phí logistics, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, việc ngành dịch vụ logistics tìm cách giảm chi phí thì gặp phải các rào cản. Xin nêu một vài ví dụ như sau. Hải Phòng thu phí kết cấu hạ tầng cửa khẩu cảng biển quá cao từ tháng 1/2017 làm tăng chi phí và thời gian thực hiện dịch vụ logistics. Hay như ngày 6/8/2014, Bộ Tài chính có ban hành Thông tư số 103/2014/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 1/10/2014 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam với mức thu 1%. Từ ngày Thông tư số 103/2014/TT-BTC có hiệu lực đã dẫn tới số lượng hàng hóa gửi tại kho ngoại quan phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu giảm tới khoảng 50%, ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực cạnh tranh của ngành logistics và các ngành xuất khẩu mũi nhọn khác như dệt may, da giầy và nhựa. Hay như việc các nhà cung cấp dịch vụ vận tải phải trả phí đường bộ và phí ngoài luồng quá cao cũng làm gia tăng chi phí logistics một cách đáng kể, vì chi phí vận tải hiện nay của Việt Nam chiếm khoảng 60% chi phí logistics...
Khảo sát của Ngân hàng Thế giới cho thấy, chi phí logistics chiếm rất lớn trong giá thành của nhiều ngành hàng tại Việt Nam. Thống kê cũng cho thấy, mức chi phí logistics tại Việt Nam cao hơn Thái Lan 6%, Malaysia 12%, còn so với Singapore thì cao hơn tới ba lần. Đáng chú ý, trong chi phí logistics thì chi phí vận tải chiếm quá lớn. Vậy, thực trạng này ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp? Đâu là giải pháp để giúp các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí, nâng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, cũng như các bất cập trong các quy định kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay là gì? Các điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics trong Dự thảo Nghị định mới cần được cụ thể hóa như thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như tạo cơ sở để quản lý một cách hiệu quả hơn về ngành dịch vụ logistics.Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch hành động năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2025. Mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP và xếp hạng thứ 50 trở lên theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics trên thế giới. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam trong thời gian tới. Vậy, liệu mục tiêu này có được hiện thực hóa hay không? Chia sẻ của ông Lê Tiến Trường, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam, ông Ngô Khắc Lê, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam và ông Nguyễn Tương, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các vấn đề này. Phóng viên hỏi: Thưa Ông Lê Tiến Trường, có ý kiến cho rằng, một trong những khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng chính là chi phí vận tải khá cao. Ông nghĩ sao về nhận định này ? Trả lời: Thứ nhất là chi phí logistics hiện nay đang chiếm tỷ trọng khá cao, với ngành ngành thủy sản, chi phí này chiếm hơn 12%, đồ gỗ chiếm 23%, rau quả 29,5%, ngành gạo chiếm đến gần 30% trong giá thành, còn chi phí này hiện đang chiếm tới gần 1/3 giá thành mỗi sản phẩm xuất nhập khẩu dệt may, trong đó, chi phí vận tải chiếm một phần lớn. Thứ hai là một trong những khó khăn của ngành gặp phải là chi phí ngành ngày càng cao liên quan đến vận tải lưu kho hàng lẻ, chi phí dịch vụ vận chuyển, cân trọng lượng container trước khi xuất khẩu của các hãng tàu nước ngoài bị đẩy lên cao bất hợp lý. Đặc biệt, việc Hãng vận tải biển Hanjin phá sản dẫn đến việc tăng giá thành vận chuyển đường biển trong thời gian tới, ảnh hưởng đến doanh nghiệp xuất khẩu dệt may…Thứ ba chi phí vận tải trên đường nội bộ, chi phí tại cảng, chi phí lưu kho lưu bãi và các chi phí khác lớn, điều này làm cho tính cạnh tranh của doanh nghiệp như doanh nghiệp dệt may sẽ khó khăn. Thứ tư chúng ta biết rằng, hiện nay chúng ta chở container trên đường bộ từ Hà Nội về Hải Phòng còn đắt hơn cả chở tàu biển từ Hải Phòng sang Tokyo. Như vậy, nó sẽ làm cho năng lực cạnh tranh chung nó kém đi… Phóng viên hỏi: Vậy, Ông cho biết điều quan trọng nhất để tiết giảm chi phí, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh là gì ? Trả lời: Điều quan trọng là nỗ lực của doanh nghiệp cần được hiệp lực với nỗ lực của quản lý Nhà nước, của một Chính phủ mang tính chất kiến tạo cho doanh nghiệp để chúng ta có năng lực cạnh tranh quốc gia chung. Bởi lẽ, khi khách hàng vào đây, không chỉ đánh giá doanh nghiệp mà họ đánh giá tổng thể để toàn bộ giá trị họ nhận được hàng, trong đó có rất nhiều phần thuộc về dịch vụ công, dịch vụ hạ tầng và quy trì; Cùng với đó là hoàn thiện khung pháp lý cho ngành dịch vụ logistics làm cơ sở cho hoạt động này phát triển… Phóng viên hỏi: Thưa Ông Ngô Khắc Lê, từ thực tiễn hoạt động và nghiên cứu trong lĩnh vực logistics, Ông có thể cho biết, bất cập lớn nhất trong các quy định kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay là gì? Trả lời: Bất cập lớn nhất hiện nay là hệ thống pháp luật điều chỉnh logistics thương mại chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, chưa quy định rõ ràng, rành mạch về trách nhiệm và giới hạn quản lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý về hoạt động logistics thương mại, nhất là giữa Bộ Công thương và Bộ Giao thông vận tải, qua đó đã làm cho việc quản lý và điều hành hoạt động logistics thương mại còn gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều cơ quan tham gia quản lý, nhưng chưa có một cơ quan điều hành chung về logistics thương mại. Nội dung về điều kiện cấp phép hoạt động logistics thương mại chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh logistics thương mại, còn gây phiền hà cho doanh nghiệp. Điển hình là giữa các quy định tại Nghị định 140/2007/NĐ-CP, Nghị định 87/2009/NĐ-CP, Nghị định 89/2011/NĐ-CP... Bên cạnh đó, việc quản lý hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ logistics thương mại sau khi đã được cấp phép hoạt động còn chưa chặt chẽ, thiếu kiểm tra thường xuyên. Phóng viên hỏi: Hiện nay, Dự thảo Nghị định về ngành nghề kinh doanh dịch vụ logistics nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp. Để có được quy định phù hợp với thực tiễn, Ông có đề xuất, kiến nghị gì về các điều kiện kinh doanh này? Trả lời: Hiện nay, dịch vụ kinh doanh logistics được quy định tại Luật Thương mại năm 2005, Nghị định 140/2007/NĐ-CP. Nghị định này đang được Bộ Công thương trình Chính phủ xem xét việc sửa đổi bổ sung để phù hợp với việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi WTO và tiến trình hội nhập sâu rộng hiện nay của nước ta. Hiện nay, điều kiện kinh doanh vẫn là vấn đề cản trở doanh nghiệp, cụ thể ở đây là giấy phép con. Ví dụ như xe vận tải đường bộ phải có đầy đủ các phù hiệu, biển hiệu... Chúng tôi cho rằng, khi đã có quy định chung về điều kiện kinh doanh logistics thì chỉ nên áp dụng một nghị định, tránh áp dụng quá nhiều nghị định ở các ngành khác như vận tải, hải quan, thuế. Về điều kiện kinh doanh logistics đối với nhà đầu tư nước ngoài, dự thảo cho phép doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam để cung cấp một số dịch vụ logistics. Cụ thể, công ty vận tải biển nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ vận tải biển quốc tế. Công ty nước ngoài cũng được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ kho bãi container, dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa; dịch vụ chuyển phát.Tuy nhiên, vẫn còn một số hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp nước ngoài vẫn phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước, như môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa; vận tải đường thủy nội địa, vận tải đường sắt; đường bộ... với tỷ lệ vốn góp nước ngoài không quá 49-51%, tùy theo lĩnh vực. Dự thảo quy định dịch vụ kiểm tra vận đơn phải lập liên doanh, nhưng trên thực tế, không có công ty nào làm riêng công việc kiểm tra vận đơn. Thế mà dự thảo lại quy định muốn làm chứng từ vận tải hoặc muốn kiểm tra vận đơn thì phải lập liên doanh, như thế là chưa phù hợp. Bên cạnh đó, việc quản lý dịch vụ logistics thuộc quá nhiều bộ như Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... trong khi việc phối hợp giữa các bộ ngành chưa tốt khiến nhiều khi không giải quyết được vấn đề. Đề nghị thành lập một cơ quan cấp quốc gia có thẩm quyền điều hành hoạt động dịch vụ logistics, bởi có một cơ quan điều phối chung giúp sẽ xóa được nhiều rào cản, tạo điều kiện đưa dịch vụ logistics Việt Nam nhanh chóng phát triển và hội nhập. Phóng viên hỏi: Thưa Ông Nguyễn Tương, hàng loạt mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics đến năm 2025 đã được Chính phủ đặt ra tại Quyết định số 200/QĐ-TTg. Vậy, dưới góc độ đơn vị đại diện cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics, Ông nghĩ sao về các mục tiêu này? Trả lời: Trong tất cả các mục tiêu trên, chúng tôi cho rằng, mục tiêu tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10% là chỉ tiêu tương đối cao. Bởi lẽ, theo số liệu thống kê của tổ chức Nhật Bản thì năm 2014, chúng ta mới chỉ đạt 3%. Tuy nhiên, cao thì chúng ta vẫn phải phấn đấu. Còn lại các chỉ tiêu khác như tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, giảm chi phí logistics xuống tương đương 16%-20% GDP và chỉ số năng lực quốc gia về logistics xếp hạng thứ 50 trở lên… là hoàn toàn chúng ta có thể đạt được. Phóng viên hỏi: Thưa ông, đã có nhiều ý kiến cho rằng, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics đang là những rào cản khiến chi phí logistics không có sự cải thiện theo hướng hỗ trợ cho doanh nghiệp. Ông nghĩ sao về nhận định này? Trả lời: Mục tiêu của ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong việc thực hiện Quyết định 200 về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics đến năm 2025 vừa được ban hành ngày 14/2/2017 là giảm chi phí logistics, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, việc ngành dịch vụ logistics tìm cách giảm chi phí thì gặp phải các rào cản. Xin nêu một vài ví dụ như sau. Hải Phòng thu phí kết cấu hạ tầng cửa khẩu cảng biển quá cao từ tháng 1/2017 làm tăng chi phí và thời gian thực hiện dịch vụ logistics. Hay như ngày 6/8/2014, Bộ Tài chính có ban hành Thông tư số 103/2014/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 1/10/2014 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam với mức thu 1%. Từ ngày Thông tư số 103/2014/TT-BTC có hiệu lực đã dẫn tới số lượng hàng hóa gửi tại kho ngoại quan phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu giảm tới khoảng 50%, ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực cạnh tranh của ngành logistics và các ngành xuất khẩu mũi nhọn khác như dệt may, da giầy và nhựa. Hay như việc các nhà cung cấp dịch vụ vận tải phải trả phí đường bộ và phí ngoài luồng quá cao cũng làm gia tăng chi phí logistics một cách đáng kể, vì chi phí vận tải hiện nay của Việt Nam chiếm khoảng 60% chi phí logistics...