Thịt bò nhập khẩu đang dần trở thành món ăn quen thuộc với nhiều người Việt. Đặc biệt, ở các nhà hàng, quán ăn phục vụ lẩu, nướng, thịt bò là món không thể thiếu trong thực đơn. Dù vậy, thịt bò nhập khẩu đông lạnh liệu có đảm bảo an toàn hay không vẫn đang là câu hỏi không dễ trả lời.
Thịt bò nhập khẩu đang dần trở thành món ăn quen thuộc với nhiều người Việt. Đặc biệt, ở các nhà hàng, quán ăn phục vụ lẩu, nướng, thịt bò là món không thể thiếu trong thực đơn. Dù vậy, thịt bò nhập khẩu đông lạnh liệu có đảm bảo an toàn hay không vẫn đang là câu hỏi không dễ trả lời.
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản pháp luật, các hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước. Các Mác và Ph.Ănghen đã viết về pháp luật tư sản: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Nội dung của pháp luật tức ý chí nhà nước được quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế. Cần có quan điểm khách quan, toàn diện về pháp luật, không tuyệt đối hóa vai trò của các yếu tố kinh tế trong đời sống pháp luật và nhà nước.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo những mục đích, đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những điều kiện khách quan của đất nước. Pháp luật, đương nhiên không phải là cấp số cộng giản đơn tất cả các lợi ích, nhu cầu của mọi cá nhân trong giai cấp thống trị mà là những lợi ích tiêu biểu, cơ bản và được chọn lọc, thông qua nhà nước “đề lên thành luật”.
Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng mang tính giai cấp sâu sắc, nhưng mức độ, cách thức thể hiện và thực hiện trong thực tế tính giai cấp không hòan toàn giống nhau trong các kiểu pháp luật và ngay cả trong một nhà nước, vào những thời điểm khác nhau. Pháp luật chủ công công khai xác định quyền lực tuyệt đối, vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền của người nô lệ như là những “công cụ biết nói” trong xã hội đương thời. Pháp luật phong kiến vẫn được coi là pháp luật “quả đấm” với hệ thống những quy định, chế tài trừng phạt giã man, vô nhân đạo, bảo vệ công khai lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến. Mặc dù là một bước tiến bộ, phát triển vượt bậc so các kiểu pháp luật trước đó cả về nội dung và hình thức, song pháp luật tư sản vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản trước hết và chủ yếu. Trong thế giới hiện đại, nhà nước, pháp luật tư sản buộc phải có những thay đổi để thích ứng với điều kiện mới. Cần phải có sự đánh giá khách quan, toàn diện về hoạt động của nhà nước và hệ thống pháp luật tư sản. Theo đó, những yếu tố tiến bộ, tích cực cần phải được nghiên cứu, kế thừa chọn lọc.
– Thuộc tính thứ nhất: tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung
Pháp luật trước hết được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Quy phạm pháp luật là quy tắc hành vi, có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá hành vi của các cá nhân, các quá trình xã hội. Thực ra, không chỉ mình pháp luật mới có thuộc tính quy phạm, các loại công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác cũng có tính quy phạm như đạo đức, tập quán, luật lệ tôn giáo…
Nhưng tính quy phạm của pháp luật có đặc trưng riêng đó là tính phổ biến, bắt buộc chung. Với thuộc tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung, quy phạm pháp luật khác với các quy phạm xã hội khác như với tập quán, điều lệ của các tổ chức xã hội. Tập quán về nguyên tắc chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc trong từng địa phương, các quy phạm của các tổ chức xã hội cũng chỉ giới hạn hiệu lực đối với các thành viên của các tổ chức này. Tính phổ biến, bắt buộc chung của pháp luật được áp dụng đối với mọi cá nhân, mọi tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật tương ứng. Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian. Việc áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết.
Thuộc tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung của pháp luật xuất phát từ quyền lực nhà nước, nhà nước là người đại diện chính thức cho toàn xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức sống trên lãnh thổ của nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật, kể cả người nước ngoài và người không có quốc tịch.
– Thuộc tính thứ hai: tính xác định chặt chẽ về hình thức
Điều này thể hiện, các quy phạm pháp luật được thể hiện trong các văn bản pháp luật với những tên gọi, cách thức ban hành và giá trị pháp lý khác nhau nhất định như Hiến pháp, các đạo luật, các nghị định, thông tư v.v… Ngôn ngữ của pháp luật trong các quy phạm pháp luật cũng có đặc điểm riêng, ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp chứ không thông qua các hình tượng nghệ thuật, ẩn dụ, ví von… để đảm bảo tính phổ thông, dễ hiểu, dễ vận dụng, tránh việc hiểu theo đa nghĩa.
Pháp luật được thể hiện ở dạng thành văn, trong khi đó, các quy phạm xã hội khác có thể dưới dạng thành văn hay bất thành văn, các tập quán chẳng hạn, luôn thể hiện dưới dạng bất thành văn. Một trong những nhiệm vụ đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội là làm sao cho các điều luật ban hành được: “cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện”.
So với nhiều loại quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính chính xác cao, được thể hiện ở các quy định pháp luật về các quyền, nghĩa vụ pháp lý và các chế tài pháp luật đối với sự vi phạm. Tính xác định rõ ràng, chặt chẽ của pháp luật nhằm bảo đảm nguyên tắc “bất cứ ai được đặt vào những điều kiện ấy cũng không thể làm khác được”. Sự chính xác của pháp luật cho phép hiểu rõ những gì được phép làm, những gì phải làm và những gì bị cấm và trên cơ sở đó các cá nhân có thể hành động một cách tự do, lựa chọn cho mình phương án, cách thức xử sự, kể cả dự liệu trước được biện pháp xử lý khi có hành vi sai trái, không đúng với yêu cầu pháp luật.
Những quy định pháp luật không rõ ràng, khó hiểu, mâu thuẫn chồng chéo, thậm chí hiểu thế nào cũng có thể đúng sẽ tạo nên những nguy cơ vi phạm nguyên tắc pháp chế thống nhất, vi phạm các quyền và lợi ích của công dân. Do vậy, việc áp dụng các phương pháp xây dựng pháp luật, kỹ thuật pháp lý tiên tiến và phù hợp thực tiễn đã và đang được coi là một trong những yêu cầu cơ bản của việc hòan thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu nhà nước pháp quyền.
– Thuộc tính thứ ba: tính được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước
Pháp luật xuất phát từ nhà nước, do nhà nước trực tiếp xây dựng, ban hành hoặc thừa nhận nên pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các công cụ, biện pháp của nhà nước. Các biện pháp mà nhà nước sử dụng để đảm bảo thực hiện các quy phạm pháp luật rất đa dạng, bao gồm các biện pháp cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục, tài trợ, tổ chức kỹ thuật…
Các loại quy phạm xã hội khác cũng được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp, cách thức nhất định. Các chuẩn mực, quan niệm đạo đức được đảm bảo thực hiện bằng các chế tài “bên trong” và “bên ngoài”, đó là lương tâm, là sự tự giác của cá nhân và dư luận cộng đồng, xã hội. Vi phạm tập quán cũng sẽ bị dư luận cộng đồng lên án và cả sự day dứt của lương tâm nữa, do vậy mà trong cuộc sống, nhiều khi, người ta có thể không đi đăng ký kết hôn chứ mấy ai dám bỏ qua các lễ nghi theo phong tập, tập quán địa phương bao giờ đâu. Không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế – các chế tài pháp luật đối với sự vi phạm các quy tắc xã hội khác.
Làm rõ thuộc tính này của pháp luật để xác định đặc trưng, ưu thế riêng của pháp luật, sự khác biệt của pháp luật so với các loại quy tắc điều chỉnh hành vi xã hội và quan hệ xã hội khác. Nhưng điều này tuyệt nhiên không nhằm cường điệu hóa vai trò của pháp luật và đánh giá thấp, hạ thấp sức mạnh của các loại quy tắc xã hội khác. Thực tế sinh động cho thấy, để hướng thiện, xác lập cái đúng, hạn chế cái ác, tất yếu phải cần đến sự điều chỉnh của đạo đức, của phong tục và các quy tắc xã hội khác… Không nên coi pháp luật là công cụ vặn năng, là loại vắc xin đặc trị để có thể chữa trị hết được mọi căn bệnh của xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, trong số các biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật của nhà nước cần đặc biệt coi trọng các biện pháp tổ chức, hướng dẫn thực hiện, xây dựng các cơ chế phối hợp đồng bộ. Chỉ trông chờ vào các chế tài được quy định trong quy phạm pháp luật và việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền khi xảy ra vi phạm pháp luật thì chưa tạo nên sức mạnh và hiệu quả của pháp luật. Cùng với các biện pháp của nhà nước, pháp luật còn phải được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp xã hội khác và bằng chính ý thức đạo đức, ý thức pháp luật của các công dân.
Trên đây là ba thuộc tính cơ bản, tiêu biểu của pháp luật. Tuy vậy, nếu xét rộng hơn thì còn phải kể đến một số thuộc tính khác của pháp luật như tính hệ thống, tính ổn định, tính dự báo. Việc nghiên cứu rộng hơn đến các thuộc tính khác như tính hệ thống, tính ổn định tương đối cũng hết sức cần thiết để có nhận thức toàn diện, hệ thống về pháp luật nhất là trong bối cảnh hiện nay, hội nhập quốc tế và giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, các yếu tố nội sinh trong đời sống quốc tế.